Mô tả
Trung Quán Luận Triết Học Long Thọ
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika), trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ngài là một trong bẩy đại minh sư của truyền thống triết học tâm linh quốc gia.
Hiện nay, Long Thọ được thế giới học Phật phương tây xem như là một nhà tư tưởng lớn nhất của Phật giáo. Từ thế kỷ trước nhiều giáo sư học giả đạo sư của các đại học và trung tâm nghiên cứu quốc tế đã có những nghiên cứu kinh viện quan trọng về Long Thọ và Trung Luận (Madhyamika) mà rất tiếc giới nghiên cứu triết học Việt Nam chưa mấy quan tâm.[3] Chủ điểm của các nghiên cứu này thường tập trung vào một tác phẩm quan trọng của Long Thọ là Mūlamadhyamakakārikā (Căn Bản Trung Quán Luận Tụng, viết tắt là Trung Luận). Từ xa xưa luận Mūlamadhyamaka đã được học giới coi là sách quan trọng nhất của Long Thọ và cũng là tác phẩm nguyên bản Sanskrit của Long Thọ ngày nay còn giữ trong Prasannapada (Minh Cú Luận) của Nguyệt Xứng (Chandrakirti).Ở Á Đông tác phẩm này được biết dưới tên ngắn gọn là Trung Luận 中論 có trong sớ luận của Thanh Mục (Piṅgalanetra), nguyên bản Phạn ngữ đã được Cưu Ma La Thập dịch ra Hán văn từ năm 409. (Như vậy nhân vật Thanh Mục phải có trước Nguyệt Xứng khoảng hai thế kỷ.) Theo truyền thống nhiều Trung Quán giải thích thì từ “căn bản” (mūla) trong tên luận, là vì tất cả các luận của Long Thọ sau này đều triển khai dựa trên những lý thuyết căn bản từ Trung Luận. Tên “Trung Luận” cũng là đặt tên theo giáo pháp của Đức Phật là giáo pháp Trung Đạo (madhyamā-patipadā). Như đã nói rõ trong kinh điển Pāli, “Trung Đạo” chỉ có nghĩa là chính đạo. Trung Đạo là con đường chính đáng, là con đường giải thoát. Là đường thoát ra khỏi những cực đoan mâu thuẫn và những giáo điều biên kiến điên đảo, tóm tắt “lìa hai cực đoan, là pháp Trung Đạo”. Vì vậy có thể nói toàn bộ Trung Luận là một giáo pháp dùng Tính Không phủ định để vượt nhị biên tiến về chân lý bất nhị (giải thoát).
Quyển thứ hai trong ba bộ luận căn bản tư tưởng Long Thọ là Hồi Tránh Luận (vigrahavyāvartanī- kāritā)[9]. Đây là một luận quan trọng của Long Thọ để kết thúc những tranh luận về một số đề tài khởi từ Trung Luận (madhyamakakāritā). Theo Stcherbatsky Hồi Tránh Luận còn là một văn bản sớm nhất của văn học Phật giáo thảo luận về lý luận học, đã mở đường cho Thế Thân (Vasubandhu 420-500) và Trần Na (Dignāga 480-540) phát triển khoa luận lý Nhân Minh Học (hetu-vidyā) của những thế kỷ sau. Nội dung Hồi Tránh Luận là các câu trả lời của Long Thọ về các thắc mắc và tranh luận của thính chúng nên luận rất trực tiếp và cụ thể. Hơn nữa sau mỗi kệ hỏi và trả lời lại còn phần thích giảng (vṛtti) của chính Long Thọ, cho nên nhiều ý nghĩa cơ bản của giáo lý Trung Quán sẽ được trình bầy tương đối dễ hiểu hơn, mặc dù nội dung không rộng bằng Trung Luận. Luận này đã được dịch ra Hoa Văn từ thế kỷ thứ V, nhưng dịch không rõ nên rất ít đạo sư người Hoa đọc đến.
Quyển thứ ba trong bộ này là Thất Thập Không Tính Luận (Śūnyatāsaptati-kārikā). Luận này ngày nay chúng ta chỉ còn một số phần bằng Sanskrit nhưng còn nhiều bản dịch Tạng ngữ. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn có nhiều giảng luận chữ Sanskrit có dẫn luận này của các đại sư danh tiếng như Thanh Biện (Bhavya thế kỷ 6), Nguyệt Xứng (Candrakirti thế kỷ 8) và Tịch Hộ (Śāntaraksita thế kỷ 8). Trước cả thời ngài Thanh Biện chúng ta cũng còn thấy nhiều sớ luận trích dẫn và nhắc đến Thất Thập Không Tính Luận. Luận này dường như chưa hề được dịch ra Hán văn, cho nên hầu như không thấy luận sư Trung Hoa nào trích dẫn quyển luận danh tiếng và quan trọng này. Tuy nhiên trong Thập Nhị Môn Luận, Cưu Ma La Thập dịch, có chép nguyên văn hai kệ từ luận này.
Theo Nguyệt Xứng (Chandrakīti tk VII) thì Hồi Tránh Luận, Trung Luận và Thất Thập Không Tính Luận là ba bộ luận căn bản Long Thọ viết nhắm vào giới tri thức thượng thủ của thời đại ngài. Hồi Tránh Luận và Thất Thập Không Tính Luận là hai luận Long Thọ viết sau Trung Luận để trả lời trực tiếp về các tranh luận và phản biện của các triết gia và các luận sư Phật giáo thời bấy giờ về Trung Luận, đặc biệt là về tuyên bố của Long Thọ “nhất thiết pháp không” (tất cả mọi hiện tượng đều là không). Cho nên, tóm lại, ba luận này có thể nói là đã trình bầy tất cả đạo lý cơ bản của giáo lý Trung Quán (mādhyamika) mà sau này trở nên tư tưởng lập cước chung của các tông môn Phật giáo Đại thừa.
Đánh giá
There are no reviews yet