Mô tả
Kinh Thư
Kinh Thư (書經 Shū Jīng) hay còn gọi là Thượng Thư (尚書) là một bộ phận trong bộ sách Ngũ Kinh của Trung Quốc, ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Nội dung Kinh Thư chủ yếu là ghi chép lại lời nói của vua tôi thời thượng cổ (Nghiêu, Thuấn) cho đến thời nhà Hạ, nhà Thương và thời Tây Chu. Từ khi Hán Vũ Đế bắt đầu đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, địa vị của Kinh Thư không hề thay đổi. Quá trình biên soạn, chỉnh lý và lưu truyền của Kinh Thư cực kỳ phức tạp, trong lịch sử xuất hiện quá nhiều văn bản có bố cục, nội dung và thể chữ khác nhau, một bộ phận được các học giả trong triều đình tổ chức chỉnh lý, hiệu đính và ban hành thành bản chính thức. Văn bản Kinh Thư ngày nay chủ yếu xuất hiện vào thời Đông Tấn, nguồn gốc của nội dung một số thiên trong văn bản này bắt đầu bị nghi ngờ từ thời Nam Tống. Đến đầu thời nhà Thanh, một số thiên trong Kinh Thư bị các học giả như Diêm Nhược Cừ xác định là giả (ngụy thư), thậm chí bị loại bỏ ra khỏi Kinh Thư.
Văn bản Kinh Thư có 2 loại: bản Kim văn của Phục Sinh thời Tây Hán, bao gồm 29 thiên, và bản Cổ văn thời Đông Tấn, trên có lời tựa của Khổng An Quốc, bao gồm 58 thiên. Đến đời Đường Huyền Tông niên hiệu Thiên Bảo, hai bản Kim văn và Cổ văn được nhập làm một thành bản Kinh Thư hiện nay.
Cuối thời Tây Hán, bắt đầu xảy ra cuộc tranh chấp giữa 2 phái Kim văn học và Cổ văn học, kết quả phái Cổ văn học ngày một thịnh lên trong khi phái Kim văn học suy yếu dần. Tranh chấp giữa Kim văn học và Cổ văn học còn kéo dài đến cuối thời Thanh.
Bản Kinh Thư hiện hành được chia làm 4 phần: Ngu thư (ghi chép về đời Nghiêu Thuấn), Hạ thư (ghi chép về nhà Hạ), Thương thư (ghi chép về nhà Thương) và Chu thư (ghi chép về nhà Chu, đến thời Tần Mục công). Bản Kim văn thời Tây Hán chia làm 5 phần: Đường thư, Ngu thư, Hạ thư, Thương thư và Chu thư. Bản Cổ văn thời Đông Hán chia làm 3 phần: Ngu Hạ thư, Thương thư và Chu thư.
Nội dung chủ yếu của Kinh Thư là ghi chép lịch sử Trung Quốc thời thượng cổ, bắt đầu từ thời Nghiêu, Thuấn và kết thúc vào thời Tần Mục công, bao gồm ba triều đại Hạ, Thương, Chu. Nhượng Tống đánh giá Kinh Thư “là một cuốn sử cổ nhất nước Tàu, mà có lẽ cổ nhất cả thế gian“. Trong tác phẩm Thượng Thư thông luận của Trần Mộng Gia, ở chương 1 đã thống kê trong 9 tác phẩm thời Tiên Tần bao gồm Luận ngữ, Mạnh Tử, Tả truyện, Quốc ngữ, Mặc Tử, Lễ ký, Hàn Phi Tử, Tuân Tử, Lã thị Xuân Thu có tổng cộng 168 chỗ trích dẫn từ Kinh Thư. Kinh Thư có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử và tư tưởng chính trị của Trung Quốc thời cổ đại.
Các thiên trong Kinh Thư có thể chia làm 6 loại:
- Điển (典): chế độ kiến thiết của đời Đào Đường và Hữu Ngu. Bao gồm 2 thiên Nghiêu điển và Thuấn điển.
- Mô (謨): lời điều trần của quan đời Hữu Ngu. Bao gồm 2 thiên Đại Vũ mô và Cao Dao mô.
- Huấn (訓): lời khuyên bảo. Bao gồm thiên Y huấn là lời khuyên bảo của Y Doãn đối với Thái Giáp.
- Cáo (誥): lời răn bảo hoặc bố cáo ra khắp thiên hạ. Bao gồm 8 thiên, như thiên Đại cáo là lời bố cáo của Chu Công sau khi dẹp loạn “Tam giám” và tiêu diệt Vũ Canh.
- Thệ (誓): lời thề, khi dụng binh tức là bài hịch. Bao gồm 6 thiên, như thiên Tần thệ ghi lại lời thề của Tần Mục công.
- Mệnh (命): lời sắc mệnh của người trên ban khắp thiên hạ. Bao gồm 7 thiên như các thiên Duyệt mệnh, Vi Tử chi mệnh.
Các bản Kinh Thư dịch ra chữ quốc ngữ là:
- Thượng Thư, bản dịch của Nhượng Tống (1940), NXB Tân Việt xuất bản năm 1963, NXB Văn học tái bản năm 2001 (Giá: 299.000 vnđ, MUA SÁCH NÀY: 0967 841 705)
- Kinh Thư, bản dịch của Thẩm Quỳnh, Trung tâm Học liệu xuất bản tại Sài Gòn năm 1968, in lần thứ hai năm 1973
- Kinh Thư, bản dịch của Trần Lê Sáng và Phạm Kỳ Nam, NXB Văn hóa – Thông tin năm 2004, 400 Trang (Giá: 299.000 vnđ, MUA SÁCH NÀY: 0967 841 705)
- Kinh Thư Diễn Nghĩa, bản dịch của Lê Quý Đôn, NXB TP. HCM 1993, 391 Trang (Giá: 299.000 vnđ, MUA SÁCH NÀY: 0967 841 705)
Đánh giá
There are no reviews yet